Scholar Hub/Chủ đề/#microalbumin niệu/
Microalbumin niệu là một xét nghiệm dùng để đánh giá mức độ rò rỉ albumin vào niệu quản, đây là một dấu hiệu ban đầu của tổn thương thận và thể hiện sự suy giảm...
Microalbumin niệu là một xét nghiệm dùng để đánh giá mức độ rò rỉ albumin vào niệu quản, đây là một dấu hiệu ban đầu của tổn thương thận và thể hiện sự suy giảm chức năng thận. Microalbumin niệu được sử dụng để screening và theo dõi các bệnh lý thận, nhất là bệnh đái tháo đường. Nếu mức độ microalbumin niệu tăng, có thể là tín hiệu sớm về sự tổn thương thận và yếu tố nguy cơ cao cho các vấn đề thận nghiêm trọng, bao gồm cả suy thận.
Microalbumin niệu đo lường mức độ rò rỉ albumin (một protein trong máu) vào niệu quản. Bình thường, niệu quản không phải là nơi mà albumin bị thất thoát, vì thận có màng lọc máu hiệu quả để giữ cho albumin và các protein khác trong máu không thoát ra thông qua niệu quản. Tuy nhiên, khi chức năng thận bị suy giảm hoặc bị tổn thương, màng lọc thận có thể không hoạt động tốt và albumin có thể bị rò rỉ vào niệu quản.
Microalbumin niệu được sử dụng để phát hiện sớm các vấn đề thận, đặc biệt là đối với bệnh nhân đái tháo đường. Bệnh nhân đái tháo đường có nguy cơ cao bị tổn thương thận, và theo dõi mức độ microalbumin trong niệu quản có thể giúp phát hiện các vấn đề thận sớm hơn.
Kết quả xét nghiệm microalbumin niệu thông thường được báo cáo dưới dạng tỷ lệ albumin và creatinin. Giá trị bình thường của microalbumin niệu thường là dưới 30 mg/g creatinin ở nam và dưới 30-20 mg/g creatinin ở nữ. Nếu giá trị vượt quá giới hạn này, điều này có thể chỉ ra rằng bệnh nhân đang có rò rỉ albumin vào niệu quản. Các bác sĩ thường kiểm tra mức độ microalbumin niệu định kỳ để theo dõi sự tiến triển của bệnh thận hoặc hiệu quả của điều trị.
Nếu mức độ microalbumin niệu tăng cao, có thể đòi hỏi thêm xét nghiệm và khám sức khỏe khác để xác định nguyên nhân và quản lý chung của tình trạng thận. Điều quan trọng là những bệnh nhân có mức độ microalbumin niệu tăng cao cần theo dõi chặt chẽ và tuân thủ các chỉ định của bác sĩ để duy trì sức khỏe thận tốt nhất có thể.
Microalbumin niệu là một xét nghiệm cụ thể để phát hiện sự rò rỉ của albumin vào niệu quản. Albumin là một protein quan trọng trong máu, và chức năng chính của nó là giữ nước trong mạch máu và duy trì áp lực oncotic. Khi các màng lọc của thận hoạt động hiệu quả, albumin không thể rò rỉ và được duy trì trong máu. Tuy nhiên, khi màng lọc thận bị tổn thương hoặc suy giảm chức năng, albumin có thể bị rò rỉ và xuất hiện trong niệu quản.
Microalbumin niệu thường được sử dụng để theo dõi sự tổn thương thận và tình trạng thận của bệnh nhân, đặc biệt là những người mắc bệnh thể 2 đái tháo đường. Bệnh đái tháo đường là một tình trạng mà mức đường huyết không được kiểm soát, dẫn đến tổn thương các mạch máu và các cơ quan khác nhau, bao gồm thận.
Microalbumin niệu thường được đo lường bằng cách sử dụng xét nghiệm kém lượng. Kết quả của xét nghiệm này thường báo cáo dưới dạng tỷ lệ albumin và creatinin trong niệu quản, được gọi là tỷ lệ albumin creatinin (ACR). Đối với người không mắc bệnh thận, giá trị bình thường của ACR là ít hơn 30 mg/g creatinin.
Nếu kết quả xét nghiệm microalbumin niệu vượt quá giới hạn bình thường, điều đó có thể chỉ ra một sự tổn thương thận. Nếu mức độ microalbumin niệu tăng, có thể là tín hiệu sớm cho sự tổn thương thận và yếu tố nguy cơ cao cho các vấn đề thận nghiêm trọng, bao gồm cả suy thận.
Bác sĩ có thể sử dụng kết quả microalbumin niệu để đưa ra quyết định về chẩn đoán và quản lý thêm. Điều này có thể bao gồm theo dõi định kỳ mức độ microalbumin niệu, kiểm tra chức năng thận khác nhau, điều chỉnh điều trị dựa trên kết quả xét nghiệm, và đưa ra lời khuyên về cách duy trì sức khỏe thận tốt nhất có thể.
Tóm lại, microalbumin niệu là một xét nghiệm quan trọng để xác định sự tổn thương thận và theo dõi tình trạng thận của bệnh nhân, đặc biệt là những người mắc bệnh đái tháo đường. Bằng cách phát hiện sớm sự rò rỉ albumin vào niệu quản, bác sĩ có thể đưa ra các biện pháp can thiệp kịp thời để bảo vệ và duy trì sức khỏe thận của bệnh nhân.
ĐẶC ĐIỂM MICROALBUMIN NIỆU CỦA BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYP 2 TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y HÀ NỘIMục tiêu: Khảo sát microalbumin niệu và các yếu tố liên quan ở bênh nhân đái tháo đường typ 2 tại bệnh viện đại học Y Hà Nội năm 2021. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang, Chọn mẫu thuận tiện thu được 134 đối tượng nhóm nghiên cứu. Kết quả: Trong 134 bệnh nhân tham gia nghiên cứu có 87 bệnh nhân chiếm 64,9% xét nghiệm Mircoalbumin niệu (+). Không có mối liên quan giữa giới tính và Mircoalbumin niệu. Tỷ lệ Mircoalbumin niệu dương tính tăng dần theo thời gian phát hiện bệnh, kết quả có ý nghĩa thống kế p < 0,01. Với các bệnh nhân có chỉ số vòng bung, chỉ số B/M tăng có nguy cơ có Mircoalbumin niệu cao hơn nhóm bình thường, Bệnh nhân có THA có có nguy cơ có Mircoalbumin niệu cao hơn nhóm bình thường. Nộng độ glucose máu và HbA1C tăng nguy cơ có Mircoalbumin niệu (+) ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2. Kết luận: Thời gian phát hiện bệnh, vòng bụng tăng, tăng huyết áp, chỉ số HDL-C giảm và kiểm soát đường máu kém là các yếu tố nguy cơ cho sự xuất hiện microalbumin niệu ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2.
#Mircoalbumin niệu #đái tháo đường typ 2
TÌNH HÌNH ĐẠM NIỆU VI LƯỢNG DƯƠNG TÍNH VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÍP 2 CÓ TĂNG HUYẾT ÁP TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA KIÊN GIANG NĂM 2021-2022 Đặt vấn đề: Tổn thương thận sớm ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2 có tăng huyết áp là biến chứng khá nguy hiểm, nếu không phát hiện sớm có thể gây hậu quả nghiêm trọng. Mục tiêu nghiên cứu: 1. Xác định tỷ lệ đạm niệu vi lượng dương tính ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2 có tăng huyết áp; 2. Xác định một số yếu tố liên quan đến đạm niệu vi lượng dương tính ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2 có tăng huyết áp. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 185 bệnh nhân đái tháo đường típ 2 có tăng huyết áp tại Bệnh viện Đa khoa Kiên Giang năm 2021-2022, phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS 18.0. Kết quả: Tỷ lệ đạm niệu vi lượng dương tính ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2 có tăng huyết áp là 34,1%. Bệnh nhân có hút thuốc lá, uống rượu bia có nguy cơ đạm niệu vi lượng dương cao hơn nhóm bệnh nhân không hút; Nhóm bệnh nhân béo bụng có nguy cơ đạm niệu vi lượng dương tính cao hơn nhóm không béo bụng 4,13 lần; Bệnh nhân có rối loạn lipid máu có nguy cơ đạm niệu vi lượng cao hơn nhóm không có rối loạn lipid máu 2,84 lần, Bệnh nhân có thời gian bệnh tăng huyết áp từ 5 năm trở lên có nguy cơ đạm niệu vi lượng dương tính cao hơn nhóm có thời gian bệnh tăng huyết áp dưới 5 năm 18,81 lần; các sự khác biệt trên đều có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Kết luận: Bệnh nhân đạm niệu vi lượng dương tính là 34,1% và chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như uống rượu bia, hút thuốc lá, béo bụng, rối loạn lipid máu và thời gian mắc bệnh.
#Đạm niệu vi lượng #đái tháo đường típ 2 #tăng huyết áp
LIÊN QUAN, TƯƠNG QUAN GIỮA NHỊP SINH HỌC HUYẾT ÁP VỚI MICROALBUMIN NIỆU Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÝP II CÓ TĂNG HUYẾT ÁPMục đích: Xác định mối liên quan, tương quan giữa các thông số huyết áp lưu động 24 giờ với microalbumin niệu ở bệnh nhân đái tháo đường týp II có tăng huyết áp. Đối tượng và phương pháp: 31 bệnh nhân đái tháo đường týp II có tăng huyết áp, 19 nam, 12 nữ, tuổi trung bình 63,71 ±6,9 năm, đồng ý tham gia nghiên cứu. Tất cả bệnh nhân được đo huyết áp lâm sàng bằng huyết áp kế thủy ngân, sau đó được đo huyết áp lưu động 24 giờ (Ambulatory Blood Pressure Monitoring-ABPM) bằng máy Suntech Oscar 2, USA với khoảng cách đo 30 phút/lần vào ban ngày từ 6 AM đến 10 PM và 60 phút /lần vào ban đêm từ 10PM đến 6 AM hôm sau. Tất cả bệnh nhân được làm xét nghiệm microalbumin niệu cùng ngày với ABPM. Kết quả: Nồng độ trung bình albumin niệu ở nhóm không trũng huyết áp ban đêm cao hơn có ý nghĩa nhóm có trũng huyết áp ban đêm, nhóm quá tải HATT 24h ≥ 50% cao hơn có ý nghĩa nhóm qúa tải HATT 24h < 50%. Có mối tương quan nghịch có ý nghĩa giữa nồng độ albumin niệu và phần trăm giảm huyết áp tâm thu ban đêm với p <0,05, r = -0,367; Có mối tương quan nghịch có ý nghĩa giữa nồng độ albumin niệu và phần trăm giảm huyết áp tâm trương ban đêm với p < 0,05, r = -0,399. Kết luận: Có mối liên quan và tương quan giữa tình trạng không trũng huyết áp ban đêm và quá tải huyết áp với nồng độ microalbumin niệu ở bệnh nhân đái tháo đường týp II có tăng huyết áp.
NHẬN XÉT MỐI LIÊN QUAN GIỮA CHỈ SỐ HÓA SINH MÁU VỚI MICROALBUMIN NƯỚC TIỂU Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYP II TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y THÁI BÌNHMục tiêu: Nhận xét mối liên quan chỉ số microalbumin nước tiểu với chỉ số hóa sinh máu ở bệnh nhân đái tháo đường typ II. Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 210 bệnh nhân đái tháo đường (ĐTĐ) týp 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đại học Y Thái Bình. Kết quả: tỷ lệ BN có microalbumin niệu (MAU) (+) 18,1%. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa biến chứng thận với các mức độ kiểm soát HbA1c, Glucose (p < 0,05). Thời gian phát hiện ĐTĐ càng dài, không tuân thủ điều trị tỷ lệ xuất hiện biến chứng thận càng tăng. Kết luận: tỷ lệ BN ĐTĐ týp 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đại học Y Thái Bình có biến chứng thận 18,1%. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa biến chứng thận với mức độ kiểm soát HbA1c, Glucose.
#Microalbumin niệu #Đái tháo đường týp 2
KHẢO SÁT NỒNG ĐỘ C – PEPTIDE VÀ MỐI LIÊN QUAN VỚI BIẾN CHỨNG VI MẠCH Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2C – Peptide là một polypeptide được tiết racùng lúc và với một lượng tương đương với insulintừ tế bào beta tụy. Việc xét nghiệm nồng độ C – Peptide lúc đói có thể cho chúng ta biết được lượng insulin nội sinh ở bệnh nhân đái tháo đường… Mục tiêu: Khảo sát nồng độ C – Peptide và mối liên quan với biến chứng võng mạc mắt và albumin niệu ở bệnh nhân đái tháo đường type 2. Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu mô tả cắt ngang 87 bệnh nhân đái tháo đường type 2 khám tại Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 01/2021 đến 8/2021. Kết quả: Nồng độ C – Peptide lúc đói trung bình trên nhóm bệnh nhân nghiên cứu là: 0,83 ± 0,35 nmol/l. Nồng độ C – Peptide lúc đói có mối tương quan nghịch biến ở mức độ vừa phải với nồng độ albumin niệu (r = -0,352, p =0,001, spearman test). Nồng độ C – Peptide lúc đói trên nhóm bệnh nhân có microalbumin niệu: 0,72 ± 0,34 nmol/l, nhóm không có microalbumin niệu: 0,88 ± 0,35 nmol/l, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p = 0,047. Nồng độ C – Peptide lúc đói trên nhóm bệnh nhân có biến chứng võng mạc mắt: 0,72 ± 0,33 nmol/l, nhóm không có biến chứng võng mạc mắt: 0,9 ±0,36 nmol/l, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p = 0,041. Kết luận: Nồng độ C – Peptide lúc đói có mối tương quan nghịch biến mức độ vừa phải với nồng độ albumin niệu. Nồng độ C – Peptide lúc đói giảm có ý nghĩa thống kê trên nhóm bệnh nhân có biến chứng võng mạc mắt do đái tháo đường và nhóm bệnh nhân có tổn thương microalbumin niệu.
#C – Peptide #biến chứng võng mạc mắt #microalbumin niệu
MỐI LIÊN QUAN GIỮA NỒNG ĐỘ C-PEPTIDE VỚI BIẾN CHỨNG ĐÁI THÁO ĐƯỜNG CỦA BỆNH NHÂN TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y HÀ NỘIMục tiêu: Xác định mối liên quan giữa nồng độ C-peptide với các biến chứng vi mạch của bệnh nhân đái tháo đường type 2 tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội năm 2021. Đối tượng: 96 bệnh nhân đái tháo đường type 2 đến khám sức khỏe tại Khoa Khám bệnh của Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Phương pháp: Mô tả cắt ngang. Kết quả và kết luận: Nồng độ C - Peptide lúc đói trung bình là 0,84 ± 0,37nmol/l. Nồng độ C – Peptide thấp có liên quan đến sự xuất hiện của Microalbumin niệu và tổn thương võng mạc ở bệnh nhân đái tháo đường.
#C-Peptide #biến chứng võng mạc mắt #microalbumin niệu
MICROALBUMIN NIỆU VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYP 2Đái tháo đường là là bệnh lý thường gặp trong thực hành lâm sàng. Microalbumin niệu (MAU) là dấu ấn để phát hiếm sớm tổn thương thận ở bệnh nhân đái tháo đường. Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát microalbumin niệu và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang được thực hiện trên 60 bệnh nhân đái tháo đường typ 2. Kết quả: (1) MAU (+) xuất hiện ở 40 bệnh nhân (66,7%) trong số bệnh nhân nghiên cứu; (2) MAU (+) ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2 liên quan đến thời gian phát hiện bệnh (p = 0,012), tăng huyết áp (OR=5,67; p=0,04; CI95%:1,65-19,46), vòng bụng tăng (OR=5,67; p=0,04; CI95%:0,05-0,61), nồng độ HDL-C < 0,9 mmol/L (OR=3,5; p=0,028; CI95%:1,11- 11,02), đường máu lúc đói ≥ 7mmol/L (OR=4,0; p=0,017; CI95%: 1,24-12,89) và HbA1C ≥ 7% (OR=4,33; p=0,01; CI95%:1,39-13,56). Kết luận: Tỷ lệ MAU (+) ở bệnh nhân đái tháo đường cao. Thời gian phát hiện bệnh đái tháo đường typ 2, vòng bụng tăng, tăng huyết áp, chỉ số HDL-C giảm và kiểm soát đường máu kém là các yếu tố nguy cơ cho sự xuất hiện microalbumin niệu ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2.
#MAU #đái tháo đường
Giá trị tiên đoán bổ sung của peptide natri lợi niệu pro-brain N-terminal và sự vôi hóa động mạch vành đối với các sự kiện tim mạch và tử vong ở bệnh nhân tiểu đường loại 2 không triệu chứng Dịch bởi AI Springer Science and Business Media LLC - Tập 14 - Trang 1-10 - 2015
Ở những bệnh nhân tiểu đường loại 2, bệnh tim mạch (CVD) là nguyên nhân chính gây ra sự tàn tật và tử vong. Chúng tôi đã đánh giá sự kết hợp của NT-proBNP và điểm số vôi hóa động mạch vành (CAC) trong dự đoán sự kết hợp giữa CVD tử vong và không tử vong cũng như tử vong ở bệnh nhân tiểu đường loại 2 và microalbuminuria (>30 mg/24 giờ), nhưng không có bệnh động mạch vành đã biết. Hơn nữa, chúng tôi cũng đánh giá giá trị dự đoán của việc phân loại trước những bệnh nhân thành nhóm nguy cơ cao và thấp tại thời điểm xuất phát. Nghiên cứu theo chiều dọc bao gồm 200 bệnh nhân. Tất cả đều nhận được điều trị đa chiều cường độ cao. Những bệnh nhân có NT-proBNP cơ bản >45.2 ng/L và/hoặc CAC ≥400 được phân loại là bệnh nhân có nguy cơ cao (n=133). Sự xuất hiện của CVD tử vong và không tử vong (n=40) và tỷ lệ tử vong (n=26) được theo dõi sau 6.1 năm (trung vị). Những bệnh nhân có nguy cơ cao có nguy cơ cao hơn với điểm cuối CVD tổng hợp (tỷ lệ nguy cơ đã điều chỉnh [HR] 10.6 (Khoảng tin cậy [CI] 95% 2.4-46.3); p=0.002) và tỷ lệ tử vong (HR đã điều chỉnh 5.3 (CI 95% 1.2-24.0); p=0.032) so với những bệnh nhân nguy cơ thấp. Trong phân tích liên tục đã điều chỉnh, cả NT-proBNP và CAC cao hơn đều là những yếu tố tiên đoán mạnh mẽ cho điểm cuối CVD tổng hợp và tử vong (p≤0.0001). Trong các mô hình điều chỉnh hoàn toàn bao gồm đồng thời NT-proBNP và CAC, cả hai yếu tố nguy cơ vẫn liên quan đến nguy cơ CVD và tử vong (p≤0.022). Không có sự tương tác giữa NT-proBNP và CAC đối với các điểm cuối được kiểm tra (p≥0.31). Ở những bệnh nhân tiểu đường loại 2 và microalbuminuria nhưng không có bệnh động mạch vành đã biết, NT-proBNP và CAC có mối liên hệ chặt chẽ với CVD tử vong và không tử vong, cũng như với tỷ lệ tử vong. Khả năng tiên đoán bổ sung của chúng cho thấy tiềm năng trong việc xác định bệnh nhân có nguy cơ cao.
#tiểu đường loại 2 #bệnh tim mạch #NT-proBNP #điểm số vôi hóa động mạch vành #tử vong #microalbuminuria
Độ dày lớp trong và ngoài của động mạch cảnh ở bệnh nhân tiểu đường tuýp 2 người Trung Quốc có hoặc không có microalbumin niệu Dịch bởi AI Journal of Endocrinological Investigation - Tập 35 - Trang 254-259 - 2011
Nền tảng: Để kiểm tra mối liên hệ giữa microalbuminuria (MAU) với độ dày lớp trong và ngoài của động mạch cảnh (CIMT) ở đối tượng tiểu đường tuýp 2 người Trung Quốc. Phương pháp và vật liệu: Hai trăm ba mươi chín bệnh nhân (64±13 tuổi, 154 nam) được chia thành 2 nhóm: một nhóm có MAU (số=119) và một nhóm không có (số=120). Chúng tôi đã ghi lại dữ liệu lâm sàng và sinh hóa cũng như CIMT và chỉ số mắt cá - cánh tay (ABI). Kết quả: Các bệnh nhân có MAU đã mắc bệnh tiểu đường lâu hơn, có huyết áp (BP) cao hơn. Họ cũng có tốc độ lọc cầu thận ước tính (eGFR) thấp hơn và mức glucose huyết tương, hemoglobin glycated, protein phản ứng C nhạy cảm cao hơn so với những người không có. Một ABI trung bình thấp hơn được phát hiện ở những người có MAU, tuy nhiên, họ không có CIMT trung bình cao hơn (0.72±0.15 so với 0.71±0.16 mm, p=0.525). Ở bệnh nhân không có MAU, CIMT có mối tương quan với tuổi, thời gian mắc chứng tiểu đường, huyết áp tâm thu, eGFR, tỷ lệ albumin/creatinine và ABI. Tuy nhiên, ở những người có MAU, CIMT chỉ có mối tương quan với tuổi và eGFR. Phân tích hồi quy đa biến cho thấy CIMT trung bình có mối tương quan chỉ với tuổi đối với bệnh nhân không có MAU, nhưng có mối tương quan với tuổi và chỉ số khối cơ thể đối với những người có MAU. Chia bệnh nhân thành 5 nhóm tuổi, chúng tôi nhận thấy rằng tuổi càng cao thì CIMT trung bình càng cao mà không có sự khác biệt nhóm giữa những người có và không có MAU ở cả hai giới. Tuy nhiên, bệnh nhân có eGFR dưới 60 ml/phút/1.73 m2 có CIMT trung bình cao hơn so với những người trên (0.75±0.16 so với 0.69±0.14 mm, p=0.005). Kết luận: Bệnh nhân tiểu đường tuýp 2 có MAU không có mối liên hệ với CIMT cao hơn. Ngược lại, những người có chức năng thận suy giảm có nhiều khả năng có mối liên hệ hơn.
MỐI LIÊN QUAN GIỮA NỒNG ĐỘ 25-HYDROXYVITAMIN D MÁU VÀ ALBUMIN NIỆU VI LƯỢNG Ở NGƯỜI BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÍP 2Mục tiêu: Xác định tỷ lệ thiếu 25-Hydroxyvitamin D máu và phân tích mối liên quan giữa25-Hydroxyvitamin D với albumin niệu vi lượng ở người bệnh đái tháo đường típ 2.Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 90 bệnh nhân đái tháo đường típ 2điều trị nội trú tại Khoa Nội tiết – Nội thận Bệnh viện Đà Nẵng.Kết quả: Tỷ lệ thiếu 25-Hydroxyvitamin D máu ở người bệnh đái tháo đường típ 2 là 20%. Nồng độ25-Hydroxyvitamin D máu có mối tương quan nghịch với mức độ bài xuất albumin niệu (r = -0,216;p < 0,05).
#25-Hydroxyvitamin D #đái tháo đường #albumin niệu.